Ý đồ, mục tiêu quân sự, chính trị của các bên Chiến_dịch_Mùa_Xuân_1975

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam

Tháng 4 năm 1974, Hội nghị lần thứ 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã có Nghị quyết 21 yêu cầu các cơ quan chiến lược giúp Tổng Quân uỷ chuẩn bị chủ trương và những giải pháp lớn về quân sự, trong đó, tập trung xây dựng Kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Cuối tháng 8 năm 1974, Trung ương Cục miền Nam và Quân uỷ miền cũng gửi ra Hà Nội bản Kế hoạch tác chiến mùa khô 1974-1975 với dự kiến giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975-1976. Nội dung kế hoạch này cũng được bổ sung vào dự thảo kế hoạch của Quân uỷ Trung ương. Bản kế hoạch sau nhiều lần bổ sung, sửa đổi đã được Trung tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tổng Tham mưu trưởng, trình bày tại Hội nghị ngày 30 tháng 9 năm 1974 giữa Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương họp tại Hà Nội.[23]

Bản dự thảo kế hoạch chiến lược vạch ra các bước, các đợt hoạt động quân sự, các hướng chiến lược và nhiệm vụ cụ thể của từng chiến trường; dự định hoàn thành trong 2 năm 1975-1976.[24]

  • Bước 1 (1975): Kế hoạch dự kiến phát động một cách bất ngờ các hoạt động quân sự trên phạm vi toàn bộ chiến trường miền Nam với ba đợt:
+ Đợt 1 (từ tháng 12 năm 1974 đến tháng 2 năm 1975): Hoạt động quân sự có mức độ với mục tiêu thăm dò phản ứng của đối phương tại Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.+ Đợt 2 (từ tháng 3 đến tháng 6 năm 1975): Mở chiến dịch tấn công quy mô lớn ở Nam Tây Nguyên và các chiến dịch phối hợp ở Đông Nam bộ, Bắc Khu V, Trị Thiên, Đồng bằng sông Cửu Long.+ Đợt 3 (từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1975): Phát triển tấn công ở Nam Bộ, mở rộng vùng giải phóng ở Trị Thiên, Khu V, tiếp tục chuẩn bị lực lượng, vũ khí, phương tiện.
  • Bước 2 (1976): Tiến hành tổng tiến công kết hợp với tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam dựa vào thời cơ có thể xuất hiện trong những giai đoạn sau:
+ Phương án 1: Sau đợt 2 (đợt tấn công chủ yếu của năm 1975).+ Phương án 2: Đầu đợt 3 (phát triển tấn công ở Nam Bộ trong mùa mưa).+ Phương án 3: cuối năm 1975 (khi chính quyền Việt Nam Cộng hoà tổ chức bầu cử Tổng thống).
  • Phương châm hành động là tiến công với cường độ tăng dần từ nhỏ đến lớn; hạn chế chiến tranh trong phạm vi chiến trường miền Nam Việt Nam; thăm dò và theo dõi phản ứng và tái can thiệp của Hoa Kỳ; sẵn sàng đối phó với các hành động phản ứng quyết liệt của Hoa Kỳ bằng không quân và hải quân, kể cả bằng lực lượng phản ứng nhanh trên bộ; khai thác khả năng nổi dậy của dân chúng tại các vùng, đặc biệt là Sài Gòn - Gia Định.[25]

Các ý kiến bổ sung của Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp vào bản kế hoạch cũng chỉ rõ: "Mặc dù các năm 1975 và 1976 đều quan trọng nhưng năm 1975 là năm bản lề tạo điều kiện quyết định để năm 1976 đạt mục tiêu cuối cùng. Nếu thời cơ đến vào năm 1975 thì lập tức tiến hành tổng tấn công, giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975".[26]

Mọi thành viên bộ chính trị của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Trung ương Cục miền Nam Việt Nam đều nhất trí rằng Mỹ đã rút thì khó quay lại, nếu đánh bằng không quân cũng không thể cứu nổi VNCH. Họ đã giành được quyền chủ động chiến trường, tạo thế chiến lược vững chắc. Lực lượng quân sự, dự trữ vật chất được tăng cường, hệ thống đường chiến lược, chiến dịch đang hoàn chỉnh. Ở các đô thị, phong trào đấu tranh đòi lật đổ Thiệu đang phát triển. Vai trò của Mặt trận giải phóng được nâng cao. VNCH đã suy yếu nghiêm trọng toàn diện và họ khẳng định "Ở miền nam, ta (quân Giải phóng Miền Nam) đã mạnh hơn địch (chỉ quân đội Sài Gòn).[27]

Những khó khăn của Quân Giải phóng miền Nam

Dù tương quan lực lượng đã thuận lợi hơn, nhưng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam vẫn gặp phải nhiều khó khăn. Mặc dù Quân Giải phóng miền Nam biết họ đã giành được thế chủ động chiến lược ở miền Nam Việt Nam, kế hoạch ban đầu của Bộ Tổng Tham mưu vẫn khá thận trọng, bởi quân Giải phóng vẫn đang phải đương đầu với một số vấn đề nghiêm trọng. Nếu cứ tấn công dồn dập, họ sẽ đứng trước nguy cơ bại trận khi hết đạn, bị đối phương phản kích. So với đối phương, họ vẫn kém xa về trang bị hạng nặng, đặc biệt về xe tăng thiết giápđại bác - điều kiện cần để tấn công vào các căn cứ ở cấp sư đoàn và trung đoàn vốn được trang bị rất đầy đủ do Hoa Kỳ cấp cho quân đội Sài Gòn.

Viện trợ quân sự của Liên Xô và Trung Quốc, đặc biệt ở danh mục "vũ khí tấn công" (xe tăngđại bác), đã giảm đáng kể từ sau Hiệp định Paris 1973. Trong 2 năm 1973-1974, VNDCCH chỉ nhận được 330 triệu USD viện trợ, chỉ bằng 19% giai đoạn 1971-1972. Trong khi đó, dù bị cắt giảm so với trước nhưng Việt Nam Cộng hòa vẫn nhận được 2,65 tỷ USD viện trợ từ Hoa Kỳ, tức là nhiều gấp 8 lần so với đối phương. Đầu năm 1975 khi biết VNDCCH chuẩn bị đánh lớn ở miền nam, Trung Quốc đã dừng viện trợ quân sự.

Do thiếu về trang bị, nhiều đơn vị pháo binh của Quân Giải phóng, nhất là ở miền Nam, vẫn chỉ được trang bị súng cối hạng nhẹ, súng không giật (DKZ), hoặc súng chống tăng vác vai (B-40). Ở địa bàn hoạt động của Văn phòng Trung ương cục Miền Nam, tức là nửa phía nam của đất nước, bảy sư đoàn bộ binh (số 3, 4, 5, 6, 7, 8 và 9) và khung quân đoàn 4 chỉ được yểm trợ bởi năm tiểu đoàn pháo (hai trong số đó trang bị pháo lấy được của Mỹ nhưng còn rất ít đạn) và ba tiểu đoàn tăng thiết giáp thiếu tổ lái. Cho đến năm 1974, toàn bộ kho đạn pháo và đạn tăng của Quân Giải phóng, bao gồm tất cả đạn dược của cả các đơn vị chiến đấu ở chiến trường lẫn của các kho dự trữ chiến lược, tổng cộng chỉ được 100.000 viên, không đủ để đánh lớn quá 2 tháng. Tình hình đạn dược nghiêm trọng tới mức các chỉ huy pháo binh phải thay pháo lớn ở một số đơn vị bằng các khẩu sơn pháo lỗi thời 76,2mm và 57mm, lấy từ kho ra. Trong khi đó, quân đội VNCH dù bị giảm viện trợ song vẫn có dự trữ vật tư chiến tranh dồi dào do Mỹ cung cấp, lên tới 1.930.000 tấn với hàng triệu viên đạn pháo.

Vì những vấn đề này, Bộ Tổng Tham mưu Quân Giải phóng ban hành sắc lệnh rằng tất cả các vũ khí hạng nặng và đạn dược còn lại phải được sử dụng thật tiết kiệm, để dành cho một đòn quyết định, chỉ tiến hành khi trận cuối cùng diễn ra. Kế hoạch 1975 chỉ cho phép dùng hơn 10% kho đạn tăng-pháo còn lại của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong cả chiến dịch 1975 (tức khoảng 10.000 viên). 45% được phân phối cho chiến dịch 1976, phần còn lại để dự trữ.

Tuy nhiên, trong Chiến dịch Đường 14 - Phước Long, Quân Giải phóng đã hoàn tất việc chiếm tỉnh Phước Long và thu được 17.000 viên đạn pháo. Chiến lợi phẩm ngoài dự tính này làm các nhà chỉ huy Quân Giải phóng rất vui mừng: 17.000 viên đạn pháo còn nhiều hơn cơ số đạn mà Bộ Tổng Tham mưu sử dụng trong suốt toàn chiến dịch. Quân Giải phóng có thể kỳ vọng sẽ chiếm được thậm chí còn nhiều đạn dược hơn ở các căn cứ lớn hơn. Do vậy, kế hoạch tấn công năm 1975 đã được điều chỉnh theo hướng tăng thêm cường độ và tốc độ tiến công, sẵn sàng đánh dứt điểm ngay trong năm 1975 (kế hoạch ban đầu dự tính sẽ giành thắng lợi trong 2 năm 1975-1976). Trong quá trình diễn ra chiến dịch, Quân Giải phóng rất tích cực sử dụng chiến lợi phẩm để khắc phục tình trạng thiếu đạn pháo. Nhiều trung đoàn pháo của Quân Giải phóng và đã sử dụng tới 75% đạn pháo chiến lợi phẩm để chiến đấu như Trung đoàn Pháo binh 68 của Sư đoàn 3, Lữ đoàn 164 Quân đoàn 2… Trong chiến dịch Huế - Đà Nẵng, lực lượng pháo binh quân khu 5 đã sử dụng 79% số đạn, pháo xe kéo chiến lợi phẩm. Ngay trong chiến dịch Hồ Chí Minh, Quân Giải phóng đã sử dụng 67 khẩu pháo 105mm, 155mm cùng 14.515 viên đạn chiến lợi phẩm để đánh địch.

Sau này, giới sử học phương Tây chủ yếu tìm hiểu xem tình trạng thiếu đạn dược trong quân đội VNCH tác động như thế nào đến sự sụp đổ của nó, mà họ không biết rằng chính Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam còn chịu thiếu hụt nghiêm trọng hơn nhiều. Sự sụp đổ nhanh chóng của quân VNCH, thực tế không nằm ở hỏa lực, mà theo đánh giá của Merle L. Pribbenow thì "Đòn tiêu diệt mạnh nhất chính là tâm lý choáng váng mà chiến lược tài ba và đầy bất ngờ của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã nện vào tổng tư lệnh Việt Nam Cộng hòa."[28]

Phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hoà

Trong giai đoạn 1973-1974, Mỹ dù rút quân nhưng vẫn tiếp tục viện trợ cho chính quyền Sài Gòn. Mỹ để lại 250.000 tấn vũ khí, bom đạn và 102 máy bay. Từ ngày 29 tháng 1 năm 1973 đến ngày 30 tháng 12 năm 1974, Mỹ còn cung cấp thêm 694 máy bay, 580 xe tăng, 520 xe bọc thép, 800 pháo, 204 tàu xuồng chiến, 1.550.000 tấn bom đạn và 2.530.000 tấn xăng dầu. Nhờ lượng vũ khí dồi dào, Việt Nam Cộng hòa cố gắng tăng cường kiểm soát lãnh thổ. Ngày 28 tháng 1 năm 1973, Nguyễn Văn Thiệu đưa ra kế hoạch "Tràn ngập lãnh thổ", sau đó là "Kiện toàn an ninh lãnh thổ", đẩy mạnh "Bình định đặc biệt". Quân đội Việt Nam Cộng hòa huy động toàn bộ quân địa phương và 40% quân chủ lực tiến hành càn quét lấn chiếm. Theo thống kê của quân Giải phóng, trong thời gian từ ngày 28 tháng 1 năm 1973 đến 31-11-1974, Việt Nam Cộng hòa mở 58.082 cuộc càn quét, ném hơn 17 vạn quả bom, bắn hơn 6 triệu quả đạn pháo, giết và làm bị thương hơn 26.500 dân thường, buộc 1,6 triệu người di dời vào trong 333 khu tập trung dân, trong đó có 163 khu mới lập sau ngày ký Hiệp định Paris.

Đầu tháng 8 năm 1974, tại Sài Gòn đã diễn ra phiên họp quan trọng của Hội đồng An ninh quốc gia Việt Nam Cộng hoà dưới sự chủ trì của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Trung tướng Đặng Văn Quang, phụ tá đặc biệt của Tổng thống, đã trình bày bản Kế hoạch quân sự Lý Thường Kiệt 1975 do Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà soạn thảo. Mục tiêu chiến lược của bản kế hoạch này không đề cập đến các hoạt động tấn công rộng rãi để "tràn ngập lãnh thổ" như các kế hoạch Lý Thường Kiệt 1973 và 1974 mà tập trung vào nhiệm vụ giữ vững những vùng chiếm đóng, tiếp tục xoá các điểm "da báo", xoá các "lõm" của quân giải phóng miền Nam.[29]

Một trong các nhiệm vụ lớn được bàn thảo là việc ngăn chặn tiếp tế của Quân Giải phóng từ miền Bắc vào miền Nam. Ý kiến của Phó đô đốc Chung Tấn Cang, tư lệnh Hải quân, cho rằng tiếp liệu qua đường biển của đối phương gần như đã bị Hải quân Việt Nam Cộng hoà cắt đứt hoặc ít nhất cũng bị gián đoạn trong thời gian dài; do đó, khả năng đối phương đánh lớn trong năm 1975 là hạn chế. Trung tướng Trần Văn Minh, tư lệnh Không quân, đưa ra những kết quả trinh sát đường không và cho biết đã có hàng chục vạn tấn tiếp liệu được đối phương đưa vào miền Nam qua hàng vạn km đường hành lang Đông và Tây Trường Sơn. Hệ thống ống dẫn dầu đã vào đến Bến Giàng (Quảng Nam) và đang tiếp tục được nối qua Hạ Lào và Cao nguyên trung phần và đến địa đầu Quân khu III. Như vậy, nếu không đánh lớn trong năm 1975, họ sẽ đánh lớn vào năm sau.

Đối với Quân khu I, Trung tướng Ngô Quang Trưởng cho rằng có hai vùng có thể trở nên nguy hiểm:

  • Huế và vùng phụ cận (Nam Quảng Trị) với binh lực đối phương lên đến gần 100.000 người và họ cũng rất dễ đưa quân tăng viện từ phía Bắc vào.
  • Sau trận Nông Sơn - Thượng Đức, vùng Đại Lộc, Quế Sơn, Tiên Phước, Tam Kỳ cũng bị uy hiếp với 3 sư đoàn bộ binh, 5 tiểu đoàn chiến xa và các đơn vị tăng phái khác của đối phương.

Ngô Quang Trưởng đề nghị bổ sung thêm quân tăng phái ngoài các sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến hiện có.

Đối với Quân khu II, Thiếu tướng Phạm Văn Phú cũng yêu cầu cho giữ lại 3 liên đoàn biệt động quân do Bộ Tổng tham mưu đã tăng phái và nếu có thể thì tăng phái thêm với lý do địa bàn rộng, dài, khó kiểm soát; lực lượng đối phương mạnh hơn năm 1972 và được tiếp tế đầy đủ.

Trung tướng Dư Quốc Đống cho rằng tình hình Quân khu III cũng không kém nguy hiểm vì đối phương đang có những lực lượng rất mạnh ở Lộc Ninh, Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Kiến Tường, Rừng Sác... Trong cuộc thảo luận này, chỉ có tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân khu IV, là không có ý kiến về phối trí lại lực lượng.

Bản đồ dự kiến 5 tuyến trì hoãn chiến của Việt Nam Cộng hòa tại Phòng Tình hình - Dinh Độc lập ngày 11 tháng 3 năm 1975

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phân tích hai khả năng về quân sự:

  • Một là đối phương sẽ duy trì cuộc chiến với cường độ tiệm tiến trên toàn lãnh thổ để đòi thi hành Hiệp định Paris. Thật ra thì họ đã áp dụng các giải pháp này từ giữa năm 1974, phù hợp với nhu cầu và thực trạng của họ. Khả năng này có thể tiếp diễn một thời gian nữa.
  • Hai là đối phương sẽ mở cuộc tấn công tổng lực để quyết định nhanh chiến cuộc. Nhưng khả năng này là thấp vì đối phương còn phải để ý đến phản ứng của đồng minh Hoa Kỳ.

Nguyễn Văn Thiệu kết luận: Đối phương có thể mở cuộc tấn công vào đầu sang năm với quy mô lớn hơn năm 1972 và kéo dài cả năm; có thể chiếm Quảng Trị, cô lập Huế, Đà Nẵng, lấy Kontum để gây áp lực với Pleiku; lấy Tây Ninh làm thủ đô đồng thời đẩy mạnh hoạt động du kích ở đồng bằng sông Cửu Long.

Theo Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho rằng sẽ khó giữ được Vùng I nên chỉ thị rằng "giữ được phần nào thì giữ" nhưng phải giữ vùng duyên hải miền trung và Vùng II nếu có thể được vì tiềm năng dầu hoả ngoài khơi. Ở Tây Nguyên thì Buôn Ma Thuột quan trọng hơn Kontum và Pleiku do tài nguyên dồi dào và dân số đông hơn hai vùng trên. Nguyễn Văn Thiệu kết luận: Phương án tốt nhất là giữ được Đà Nẵng, nếu được cả Huế càng tốt. Phương án thứ hai là lùi về Quảng Nam, lấy Chu Lai làm căn cứ tiền tiêu. Phương án thứ ba là lui về Tuy Hoà. Ngoài các lý do về quân sự thuần túy, một trong những lý do buộc Nguyễn Văn Thiệu phải tính đến khả năng thu hẹp vùng lãnh thổ là để tương xứng với viện trợ từ Hoa Kỳ bị cắt giảm từ hơn 1 tỷ USD xuống còn 700 triệu USD trong năm tài khoá 1975.[30]. Thực chất, đây là cốt lõi của bản kế hoạch tái phối trí lại binh lực của Quân lực Việt Nam Cộng hoà do Đại tướng Cao Văn Viên đệ trình hồi tháng 1 năm 1974 nhưng đã bị Nguyễn Văn Thiệu gạt qua một bên.[31]

Do không thể tự sản xuất vũ khí và phải nhập 100% từ bên ngoài, khả năng chiến đấu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa hoàn toàn phụ thuộc vào mức viện trợ của Mỹ. Trong một tài liệu do tướng John Murray và Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa trình lên tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tháng 10 năm 1974 cũng chỉ rõ:

  • "Nếu mức viện trợ quân sự là 1,4 tỷ USD thì có thể giữ được các vùng đông dân cư tại bốn vùng chiến thuật.
  • Nếu mức viện trợ xuống 1,1 tỷ USD thì có thể không giữ được Quân khu I
  • Nếu mức Viện trợ còn 900 triệu USD thì khó giữ được Quân khu I, Quân khu II và khó đương đầu với cuộc tổng tấn công của Bắc Việt.
  • Nếu viện trợ chỉ còn 750 triệu USD thì chỉ có thể phòng thu một vài khu vực và sẽ khó điều đình với Bắc Việt.
  • Nếu viện trợ chỉ còn 600 triệu USD thì chỉ còn có thể giữ được Sài Gòn và vùng châu thổ sông Cửu Long".[5]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_dịch_Mùa_Xuân_1975 http://www.mekongrepublic.com/vietnam/findunit.asp http://vietnam.ictglobal.net/webhtml-01/KichChienG... http://vnexpress.net/Vietnam/Xa-hoi/2005/04/3B9DDC... http://openvault.wgbh.org/catalog/vietnam-f729b0-i... http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story... http://www.bbc.co.uk/vietnamese/worldnews/cluster/... http://baotintuc.vn/dau-an-su-kien/chien-thang-vi-... http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu... http://www.baophuyen.com.vn/76/130239/chien-dich-h... http://www.htv.com.vn/chuyende/news_detail.asp?per...